Photo: Stained glass window depicting Pentecost, Slupsk, Poland
Did Jesus Intend to Start a Church?
(Bài của Đức Cha Daniel Mueggenborg, một
bài học thánh kinh, nâng cao sự hiểu biết về liên hệ giữa đạo Do Thái trong thời
Cựu Ước và giáo hội Công Giáo trong thời Tân Ước. Nguyên bản tiếng Anh đăng
trong Northwest Catholic tháng 1 và 2, 2019)
HỎI: Khái niệm về một “giáo hội” xuất hiện
khi nào nơi Chúa Giêsu và các môn đệ? Con nhớ không có nghe nói về các “giáo hội”
trong lịch sử Do Thái và con không biết Chúa Giêsu có ý định mở đầu một giáo hội
mới hay ý định chủ yếu của ngài là canh tân đức tin của người Do Thái.
ĐÁP: Ta không nên ngạc nhiên vì từ “giáo hội”
không xuất hiện trong Cựu Ước và chỉ xuất hiện hai lần trong Phúc Âm (Matthew
16:18 và 18:17). Lý do là từ “church” (giáo hội) trong tiếng Anh dùng để phiên
dịch từ “ecclesia” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “những người được gọi riêng
ra”. Hầu hết Cựu Ước được viết bằng tiếng Do Thái và tiếng Do Thái không có từ
nào chỉ “giáo hội”. Tuy vậy quả thật ta thấy trong khắp Cựu Ước rằng Chúa đã thật
sự gọi một dân tộc riêng ra khỏi phần còn lại của nhân loại để làm dân riêng của
ngài. Đây là dân tộc Do Thái đang làm nô lệ trên đất Ai Cập.
Sự tuyển
chọn này của Thiên Chúa đã dứt khoát xảy ra khi 12 chi tộc Do Thái liên kết lại
thành một liên minh tại Shechem và dân tộc của Chúa được hình thành lần đầu
(xem Joshua 24). Những đoạn như Exodus 24 (Xuất Hành) và Deuteronomy 8 (Quyển 5
Cựu Ước) cho thấy rất rõ Chúa tiếp tục kêu gọi và hình thành một dân tộc để trở thành dân riêng của ngài trên thế giới.
Những người được kêu gọi là những người bắt buộc phải đáp trả bằng một cuộc sống
theo đúng ý muốn của Chúa và bằng cung cách thờ phượng thuần khiết, không được
thờ ngẫu tượng và các thần giả dối. Mối liên hệ này được chuẩn nhận bằng một
giao ước.
Điều này
chứng minh ý định không ngừng của Chúa trong mọi thời đại là thiết lập một mối
liên hệ nghiêm chỉnh với nhân loại, bao gồm những cam kết và nghĩa vụ hỗ tương.
Mười Điều Răn được ban truyền là một phần của liên hệ giao ước với dân Chúa, được
phát triển không ngừng. Ta còn có thể nói đây chính là lý do Chúa đã tạo dựng
nhân loại - để biết, yêu và phụng sự Chúa trên đời này và ở bên Chúa trong cuộc
sống đời đời.
Trong
Cựu Ước ta thấy biết bao lần Dân Chúa đã bất tuân những lệnh truyền của Chúa như
thế nào, trong cách đối xử với nhau cũng như về cách thờ phượng thuần khiết. Vì
lý do đó Chúa đã gửi những tiên tri đến nhắc nhở dân trở lại sống trung thành với
giao ước. Ngay cả trong những thời gian đa số người ta không tuân giữ liên hệ
giao ước, lúc nào cũng còn một số ít kiên trì gìn giữ liên hệ đúng đắn với Chúa.
những người này được gọi là số lành thánh còn sót lại (cũng gọi là những kẻ nghèo
khó, những kẻ bé mọn - tiếng Do Thái gọi là anawim.)
Nhờ tiên
tri Isaiah dân mới hiểu được rằng Chúa muốn cứu độ toàn thể thế giới, chứ không
phải chỉ một quốc gia (xem Isaiah 49:6). Dân Chúa là công cụ nhờ đó tất cả mọi
dân tộc được kêu gọi thờ phượng một cách chính đáng và giữ liên hệ đúng đắn với
Chúa. Tiên tri Jeremiah đi xa hơn nữa, loan báo rằng có một ngày Thiên Chúa sẽ
thiết lập một giao ước mới với dân người - một giao ước còn vĩ đại hơn giao ước
do Môi Sen thiết lập. (xem Jeremiah 31:31-34)
Dân Chúa
trong Cựu Ước là nguồn gốc của giáo hội thời Tân Ước. Sứ mạng rao giảng của Chúa
Giêsu bắt đầu từ trong đạo Do Thái trong nỗ lực làm sáng tỏ Chúa muốn gì nơi chúng
ta, trong liên hệ giữa mỗi người với nhau và trong liên hệ với Thiên Chúa. Tuy
thế ngay từ đầu cuộc rao giảng của Chúa Giêsu, ngài đã nhận ra đa số người theo
đạo Do Thái không đáp ứng sứ điệp của ngài. Thật ra sự chống đối những giáo huấn
và hành động của Chúa Giêsu đã khiến cho những người lãnh đạo Do Thái giáo tìm
cách giết ngài như ta thấy ngay từ phần đầu những bài trần thuật của Phúc Âm
(xem Mark 3:6) Chúa Giêsu đáp lại sự chối bỏ này bằng cách gọi 12 môn đệ đến với
ngài. (xem Mark 3:13-19, Matthew 5:1, Luke 6:12)
Việc kêu gọi 12 người này chứng tỏ Chúa chúng ta muốn tiếp tục mạc khải một cách nghiêm chỉnh ý của Chúa Cha qua một số ít còn sót lại. Tính cách tiêu biểu của việc lựa chọn 12 môn đệ hiển nhiên có liên quan đến 12 chi tộc trong Cựu Ước.
Chúa
Giêsu tiếp tục mạc khải ý của Thiên Chúa cho nhân loại trong cuộc rao giảng, cuộc
thương khó, sự chết và phục sinh. Một phần trong sứ mạng của ngài là giành thời
gian và cố gắng đặc biệt để hun đúc nhóm mười hai này. Ngài cũng ứng nghiệm lời
tiên tri Isaiah bằng cách thiết lập giao ước mới (và đời đời) bằng chính máu của
ngài trong bữa ăn sau cùng.
Cũng
như Thiên Chúa đã gọi riêng ra 12 chi tộc để làm dân riêng đặc biệt của Ngài,
giờ đây Chúa Giêsu đang gọi riêng 12 môn đệ từ 12 chi tộc để sống trong một mối
liên hệ trong sáng, thuần khiết và thật sâu
đậm với Chúa.
Như vậy
giáo hội là dân mới của Chúa.
Chúa
Giêsu ban Chúa Thánh Linh cho những ai là dân riêng của ngài (giáo hội) để gìn
giữ chúng ta trung thành cho đến ngày ngài trở lại. Giáo hội mà Chúa Giêsu thành
lập được gọi trong Tân Ước bằng những tên
khác nhau như mình Chúa Kitô (1 Corinthians 12:27), lâu đài thiêng liêng (1
Peter 2:5), Nàng Dâu của Chúa Kytô (Ephesians 5:22-23), gia đình Chúa (1
Timothy 3:5), đoàn chiên (1 Peter 5:1-5) v.v…Mỗi danh hiệu này nhắc nhở ta luôn
luôn có sự khởi động từ Thiên Chúa và sự đáp ứng của con người trong giáo hội.
Trong
sứ vụ rao giảng của các tông đồ, ta thấy đúng cấu trúc của giáo hội và việc cử
hành các nhiệm tích được phát triển tới cao độ. Ta cũng thấy có bốn phẩm tính vĩnh
viễn lúc nào cũng phải có trong giáo hội Chúa Kitô thành lập, cũng gọi là những
phẩm tính không thể xóa bỏ: hiệp nhất (duy nhất), đón nhận mọi người (universal,
catholic), thánh thiện và dựa trên những giáo huấn của những người được trực diện
với Chúa Giêsu (tông truyền, apostolic).
Bốn phẩm
tính không thể xoá bỏ này của giáo hội do Chúa Kitô thiết lập chỉ tồn tại đầy đủ
(và chỉ đầy đủ) trong Giáo Hội Công Giáo, là giáo hội tiếp tục thi hành sứ mạng
do Chúa chỉ định, sứ mạng làm nhiệm tích cứu độ cho cả thế giới.
Vũ Vượng
dịch