Suy Niệm Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 2017
Khi mời gọi
mọi người đi theo mình, Đức Giêsu đã tuyên bố: “Ai muốn theo Thầy thì phải từ bỏ
mình, vác thập giá mình mà theo”(x. Mc 8,34). Khi huấn dụ cho các tông đồ, Đức
Giêsu báo cho họ biết trước: “Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen
ghét...” (x. Mt 10,22). Khi sai các tông đồ đi rao giảng, Đức Giêsu cũng nói:
“Thầy sai các con đi như đàn chiên đi giữa bầy sói”(x. Mt 10,16).
Như vậy,
bách hại luôn gắn liền với các Kitô hữu, họ phải chịu muôn vàn hình khổ mà người
đời có thể nghĩ ra, nhưng qua cái chết của họ nói lên cho thế giới nhiều điều.
Đó là ba điểm chúng ta cùng nhau suy niệm trong ngày lễ hôm nay.
1. Bách hại luôn gắn liền với các
Kitô hữu
Thật vậy,
bách hại luôn gắn liền với đời sống của môn đệ Đức Giêsu và cuộc sống của Giáo
hội mà Ngài sáng lập. Lịch sử Giáo hội qua mọi thời đại đã chứng minh cho chúng
ta thấy điều đó. Sau cái chết của Đức Giêsu, các môn đệ và vô số những người đi
theo Ngài lần lượt bị giết hại. Thánh Stêphanô được xem là vị tử đạo tiên khởi.
Rồi đến các thánh Tông đồ. Cứ thế, Giáo hội Rôma bị bách hại liên tiếp suốt 300
năm. Từ đó tới nay, nơi này hay nơi khác, không có thời gian nào mà Giáo hội
không bị bách hại. Theo báo cáo của tổ chức “Open Doors”, trong năm 2013, trên
thế giới có 2 123 vụ giết chết “tử vì đạo” (Nguồn: Reuters). Riêng tại Việt Nam
chúng ta, Giáo Hội cũng bị bách hại trong suốt gần 300 năm đầu, từ khi đón nhận
Tin Mừng. Bách hại khốc liệt nhất là thời kỳ của các vua nhà Nguyễn: Thiệu
Trị, Minh Mạng, Tự Đức. Có khoảng 150 ngàn người chết tử vì đạo. Trong số
đó, có 117 vị đã được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong Hiển Thánh
ngày 19 tháng 6 năm 1988 và một vị được phong Chân Phước đó là Thầy Giảng Anrê
Phú Yên.
Hiện tại, mặc
dầu không có sắc chỉ cấm đạo một cách minh nhiên, nhưng Giáo Hội Việt Nam vẫn
đang còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc giữ đạo, sống đạo và truyền đạo.
2. Những hình khổ các Kitô hữu phải
chịu?
Người ta có
thể nghĩ ra muôn vàn hình khổ để bắt các vị Tử Đạo phải chịu. Cụ thể, các Kitô
hữu ở Rôma phải chịu các hình khổ như: Cho thú dữ phanh thây, chà đạp, xé xác,
hoặc tẩm dầu đốt cháy như những ngọn đuốc trong đêm tối hay đóng đinh vào thập
tự…Còn ở Việt Nam, hình khổ mà các vị Tử Đạo phải chịu là: Bá đao : bị lý hình
dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng; Lăng trì : chặt
chân chặt tay trước khi bị chém đầu; Thiêu sinh : bị thiêu sống; Xử trảm : bị
chém đầu; Xử giảo : bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến
chết; Chết rũ tù : bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới
khi kiệt sức và chết gục trong tù.
Mặt khác,
người Kitô hữu phải chịu muôn vàn hình khổ khác do kế hoạch Phân Sáp của Vua Tự
Đức vào năm 1851 và 1856. Đây là một kế
hoạch rất thâm độc: Thứ nhất, không cho người công giáo sống trong làng công giáo
của mình, nhưng phải đến ở trong các làng bên lương; thứ hai, một người công
giáo bị năm người bên lương canh giữ cẩn mật; thứ ba, các làng công giáo bị phá
hủy, của cải ruộng đất của người công giáo bị tịch thu và giao vào tay những
người bên lương, những người lương sử dụng và nộp thuế cho nhà nước; thứ tư,
không cho người đàn ông công giáo ở một nơi với người đàn bà công giáo, không
cho vợ chồng công giáo ở với nhau, mỗi người phải đi ở một nơi xa nhau, con cái
của người công giáo thì phải để cho gia đình người lương nuôi. Theo các sử liệu
ghi chép lại, với kế hoạch Phân Sáp, có khoảng 400 000 kitô hữu phải bị đi phân
sáp, trong đó có từ 50 000 – 60 000 tín hữu phải chết nơi phân sáp, 100 làng
công giáo bị tàn phá bình địa, 2 000 họ đạo bị tịch thu tài sản ruộng đất, 115 linh mục Việt nam và 10 giáo sĩ ngọai quốc bị giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị
phá tan, 2000 nữ tu Mến Thánh Giá phải tan tác, 100 nữ tu Mến Thánh Giá chết vì
Đạo.
Ngoài ra,
phải kể đến những cuộc thảm sát người Kitô hữu do phong trào Văn Thân ở thế ký
19 gây ra: tổng cộng số giáo dân bị giết khoảng 40 000 người, 30 linh mục Việt
Nam, 20 thừa sai và hàng ngàn họ đạo bị thiêu hủy. (Nguồn các dự liệu:
Internet)
3. Cái chết của các Thánh Tử Đạo
nói lên điều gì?
Thứ nhất,
cái chết của các Thánh Tử Đạo nói lên niềm tin mãnh liệt của cha ông chúng ta đối
với đạo Chúa. Thật vậy, cha ông chúng ta đã được đón nhận đức tin vào Chúa. Đức
tin đó đã được đâm rễ sâu vào tâm hồn của các Ngài một cách chắc chắn đến nỗi
không có gì có thể tách rời được. Đúng như lời Thánh Phaolô khẳng định: “Cho dầu
là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương
lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo
nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện
nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.” (Rm 8,38,39). Bằng chứng cụ thể: Tại công
trường Đông Hới, quan tra vấn Cha Khoa nhiều lần, khuyên dụ Cha bỏ đạo, quan
còn ra lệnh đánh Cha 76 roi để uy hiếp tinh thần và dùng nhiều mưu kế và khổ
hình để lung lạc đức tin của Cha Khoa, nhưng Ngài nhất quyết đi trọn con đường
khổ giá, giữ vững đức tin. Các quan đành thua cuộc và quyết định lên án xử giảo
cha.
Thứ hai,
cái chết của các Thánh Tử Đạo nói lên lòng trung thành với Thiên Chúa: Các
Thánh Tử Đạo không chỉ trung thành với vua chúa trần gian, với quê hương tổ quốc
mà còn trung thành với Giáo Hội và nhất là với Thiên Chúa. Thánh Micae Hồ Đình
Hy thưa với vua rằng: “Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào
hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để
nên giống Đức Kitô”. Thánh Phêrô Quí khẳng định: “Dù trăng trói, gông cùm, tù rạc;
chén ngục hình xiềng toả chi nề; miễn vui lòng cam chịu một bề; cho trọn đạo
trung thần hiếu tử”.
Thứ ba, cái
chết của các Thánh Tử Đạo nói lên đức hy sinh can đảm phi thường: Con người ai
mà không tham sống sợ chết, ai mà không sợ đau khổ, nhất là những đau khổ man rợ
như: voi dày, thiêu sinh, trảm quyết, lăng trì, bá đao…Vậy mà, nhờ ơn Chúa trợ
giúp, các Thánh Tử Đạo đã hy sinh, can đảm lướt thắng tất cả những khổ hình để
giữ vững đức tin, giữ vững lập trường: “Thà chết chứ không chịu bỏ đạo, bỏ
Chúa”. Thánh Anrê Thông xác quyết: “Thà tôi bị lưu đày và chịu chết vì Chúa; Chứ
tôi không chối đạo”. Thánh Laurenxô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân đã trả lời khi
các quan bắt người bước qua thánh giá: “Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời đất.
Thánh Giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể tôn kính
chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn sàng chịu chết vì đức tin vào Thiên Chúa của
tôi”. Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, khẳng định: “Tôi là một Kitô hữu. Tôi sẵn sàng
chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi
dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ”.
Tóm lại,
cái chết của các Thánh Tử Đạo cho chúng ta thấy niềm tin mãnh liệt vào Đạo,
lòng trung thành sắt son với Chúa và sự hy sinh can đảm phi thường trước muôn
vàn hình khổ của cha ông chúng ta. Vì thế, cái chết của các ngài như những hạt
giống tốt được Thiên Chúa gieo vào lòng đất và trổ sinh nhiều bông hạt. Đúng
như câu nói bất hủ của Giáo Phụ Tertulien: “Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống
sinh ra các Kitô hữu”. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã nói: Sỡ dĩ
Giáo Hội đã phát triển mạnh là nhờ “thời gian gieo giống của các Đấng Tử Đạo và
gia sản sự thánh thiện của các thế hệ Kitô hữu đầu tiên”. Nói cách khác, chính
hành vi làm chứng đạo bằng cái chết của vô vàn tiền nhân đã xây dựng nên Giáo Hội.
Năm 2018,
chúng ta sẽ kỷ niệm 30 năm Toà Thánh nâng 117 vị Tử Đạo Việt Nam lên hàng hiển
thánh. Vậy, “chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội những chứng nhân anh
dũng, dám sống mầu nhiệm hạt lúa được gieo vào lòng đất, chấp nhận chết đi để
mang lại nhiều hoa trái (x. Ga 12,23-25)”. Đồng thời, “kỷ niệm biến cố phong
Thánh Tử Đạo là dịp để chúng ta ôn lại đời sống chứng nhân của các ngài, noi
gương các ngài, sống tinh thần Phúc Âm trong mọi hoàn cảnh, cộng tác phần mình
xây dựng một Giáo Hội vững mạnh và một xã hội công bằng và nhân ái.” (x. Thư
chung HĐGM Việt Nam 2017, số 5).
Xin các
Thánh Tử Đạo Việt Nam cầu thay nguyện giúp cho chúng ta. Amen.
Lm. Anthony
Trung Thành
http://conggiao.info/suy-niem-le-cac-thanh-tu-dao-viet-nam-2017-d-43301