Rao Giảng Tin Mừng Bằng Những Việc Tốt
EVANGELIZING THROUGH THE GOOD
(Nguyên
bản tiếng Anh của Đức Giám Mục Robert Barron đăng trong Báo Điện Tử NW Catholic
ngày 21 tháng 3, 2017)
Ai đã
thấy qua việc tôi làm đều biết tôi hô hào phải có những bài luận lý hùng hồn để
bảo vệ chân lý đức tin. Từ lâu tôi đã kêu
gọi làm sống lại điều mà từ xưa người ta gọi là khoa giảng giải đức tin
(apologetics), tức là bảo vệ những điều đức tin truyền dạy, chống lại những kẻ
nghi ngờ. Và tôi không ngừng tham gia tranh luận chống lại thứ học thuyết Công
Giáo giản đơn, đại khái.
Nhưng
từ nhiều năm qua tôi cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của cái đẹp trong việc rao
giảng tin mừng. Thí dụ: công trình trang trí trần Nhà Thờ Sistine (ở La Mã),
Nguyện Đường Thánh (Sainte Chapelle), Hài Kịch Thánh của Dante, Nhạc phẩm Cuộc
Thương Khó Chúa Giêsu theo Thánh Matthêu của Bach, bốn bản Tứ Cầm của T.S
Eliot, nhà thờ chánh tòa hoành tráng miền Chartres … tất cả đều có một sức thuyết
phục phi thường, hơn cả những bài lý luận chính thức. Như vậy tôi khẳng định
con đường chân lý và con đường nghệ thuật.
Ngoài
ra, còn có cách thứ ba để nâng cao đời sống tâm linh. Đó là làm những việc tốt.
Do đó tôi cũng đề nghị một phương pháp
truyền bá đức tin bằng cách này. Đời sống luân lý chính trực, sống theo cách sống
Kitô giáo một cách cụ thể, nhất là khi việc ấy đòi phải có lòng dũng cảm. Những
việc như vậy có thể lay chuyển ngay cả những kẻ vô thần cứng lòng nhất để đưa họ
vào đức tin. Giá trị của nguyên tắc này đã được chúng minh nhiều lần trải qua các
thế kỷ.
Trong
thời nguyên thủy của đạo Thiên Chúa, khi cả người Do Thái và người Hy Lạp đều
coi đức tin mới phát sinh của chúng ta như điều gì trái luân thường đạo lý hay
là phi lý, chính đời sống luân lý tốt lành của những người theo Chúa Giêsu đã đưa
nhiều người vào đức tin. Một bậc tiền bối của Giáo Hội, Cha Tertullian đã kể lại
phản ứng ngạc nhiên của người ngoại giáo đối với giáo hội sơ khai qua câu nói bất
hủ: “Sao mà những người theo đạo Kitô này thương yêu nhau đến thế?”
Ở vào
một thời đại mà các ấu nhi dị dạng thường bị phơi bầy lộ liễu ngoài đường, khi
những người nghèo khó và người bệnh tật bị bỏ mặc và khi giết người để trả thù
là truyện tất nhiên thì những Kitô hữu thời ban sơ chăm sóc những em bé vô thừa
nhận, trợ giúp những người bệnh, người hấp hối và ra sức tha thứ cho những kẻ bách
hại các tín hữu. Tấm lòng bao dung ấy không phải chỉ dành cho anh em trong đạo
mà còn toả rộng đến những người bên ngoài và cả kẻ thù nữa.
Nếp sống
luân lý chính đáng độc đáo vượt bực này có sức thuyết phục mạnh mẽ, khiến cho
nhiều người tin rằng có một điều gì lạ lùng đang xảy ra nơi những người theo Chúa
Giêsu, một điều gì cao cả và hiếm có, khiến cho họ phải suy nghĩ lại nghiêm chỉnh
hơn.
Trong
thời kỳ hỗn loạn về văn hóa và chính trị xảy ra sau khi đế quốc La Mã sụp đổ, một
số những “kiện tướng” của phong trào tâm linh đã trốn vào các vùng hoang địa, đồi
núi và hang động để sống một đời sống Kitô hữu thật nghiêm ngặt. Bắt nguồn từ
những nhà khổ hạnh thời sơ khai ấy đã phát sinh ra các dòng tu, một phong trào
sống tâm linh. Với thời gian phong trào này đã dẫn tới công cuộc tái khai hóa
Châu Âu. Điều mà nhiều người say mê chính là nếp sống của các thày dòng: lòng
cam kết mạnh mẽ, yêu khó nghèo và an tâm tín thác vào sự quan phòng của Chúa. Một
lần nữa ta thấy đời sống theo lý tưởng Phúc Âm có sức thuyết phục mạnh mẽ dường
nào.
Một việc
tương tự khác xảy ra vào thế kỷ mười ba, thời kỳ xảy ra những vụ nhũng lạm lớn
trong giáo hội, nhất là trong hàng giáo phẩm. Có hai thày tu, tên là Phanxicô và
Đa Minh, cùng với nhóm anh em cùng chí hướng đã lập nên những dòng khất thực. Đây là một cái tên
văn vẻ để gọi những thày dòng đi ăn xin. Lòng tín thác, đơn sơ, phục vụ người
nghèo và luân lý thanh khiết của những thày dòng Đa Minh và thày dòng Phanxicô đã
khơi dậy một cuộc cách mạng trong giáo hội và đem Phúc Âm trở lại cho biết bao
người Kitô hữu khi họ đã trở thành lơ là nguội lạnh với đức tin.
Chúng
ta thấy có một động lực tương tự trong thời đại ta đang sống. Đức Thánh Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II được xếp hạng nhì trong các nhà rao giảng Phúc Âm mạnh mẽ nhất
của thế kỷ hai mươi, nhưng người được xếp
hạng nhất rõ ràng là một phụ nữ chưa bao giờ viết một tác phẩm lớn về thần học
hay những áng văn cổ võ đức tin, chưa bao giờ tranh luận công khai với những kẻ
hoài nghi, cũng chưa bao giờ làm ra một công trình nghệ thuật tôn giáo nào. Người
mà tôi đang nói đến chính là Mẹ Maria thành Calcutta. Suốt một trăm năm qua không
có ai đã truyền bá đức tin Công Giáo có hiệu quả hơn một nữ tu giản dị, sống khó
nghèo tột độ và tận hiến đời mình để phục vụ những người bị bỏ rơi bi đát nhất
trong xã hội chúng ta.
Lại
xin kể một câu truyện rất hay về cuộc đời của một thanh niên tên Gregory. Cậu tới
thành Alexandria (Ai Cập) để tìm gặp nhà thần học nổi tiếng Origen để tìm hiểu
những điều căn bản về học thuyết đạo Kitô. Thầy Origen nói: “Trước hết cậu cứ đến
và sống chung trong cộng đồng chúng tôi rồi cậu sẽ hiểu những giáo điều của chúng
tôi.” Gregory nghe lời khuyên, gia nhập cộng đồng đúng lúc và hân hoan đón nhận
đức tin phát triển thật dồi dào ở đây. Ngày nay người thanh niên ấy được nổi tiếng
với danh hiệu Thánh Gregory Hay Làm Phép Lạ.
Một việc
khác có tác động tương tự là ảnh hưởng của một lời nói của Gerard Manley
Hopkins, một cha Dòng Tên. Ngài nói với một bạn dòng đang cảm thấy khó chấp nhận
được những chân lý Kitô giáo. Vị linh mục kiêm thi sĩ Dòng Tên ấy không khuyên
người bạn dòng của mình đọc một quyển sách nào hay tra cứu một luận văn nào, nhưng
chỉ nói: “Cứ làm việc bố thí.” Thực hành điều Chúa giảng dạy này quả là có sức
thuyết phục mạnh mẽ.
Chúng
ta đang trải qua một trong những thời kỳ đen tối nhất của lịch sử giáo hội. Những
vụ lạm dụng tình dục tai tiếng của giáo sĩ đã khiến cho vô số người xa lìa đạo
Công Giáo và làn sóng thế tục hóa đang dâng cao, nhất là trong giới trẻ. Đức Cố
Hồng Y nổi tiếng George, cha linh hướng của tôi, theo dõi tình hình này và ngài
thường nói: “Tôi đang trông đợi những dòng tu; tôi đang trông đợi những phong
trào.”
Theo tôi,
ý ngài muốn nói: trong những thời kỳ khủng hoảng, Chúa Thánh Linh thường cho những
người thánh thiện đặc biệt, nam có nữ có, xuất hiện và ra sức sống đời Phúc Âm
một cách nghiêm ngặt và công khai. Xin nói rõ một lần nữa, tôi tin chắc rằng lúc
này chúng ta cần có những nhà lý luận tài giỏi, nhưng tôi còn tin mạnh mẽ hơn nữa:
chúng ta đang cần có những bậc thánh nhân.
Vũ Vượng
dịch