NHỮNG NĂM DẬU TRONG LỊCH SỬ GIÁO HỘI TẠI VIỆT NAM
Khổng Thành Ngọc
Theo Khâm Định
Việt Sử Thông Giám Cương Mục, bộ sách sử do Quốc Sử Quán triều Nguyễn soạn thảo
vào khoảng năm 1856-1884, sự xuất hiện của một nhà truyền giáo phương Tây đến
Việt Nam được ghi nhận trong quyển thứ 331
như sau: “Theo sách Dã Lục 2, thì tháng 3 năm Nguyên Hòa thứ nhất (1533)
đời Lê Trang Tông, người Tây Dương tên là I-nê-khu lén lút đến xã Ninh Cường,
xã Quần Anh huyện Nam Chân và xã Trà Lũ huyện Giao Thủy3, ngấm ngầm truyền giáo
về tả đạo Gia Tô.”
Như vậy, nếu lấy
sự kiện được ghi trong sử sách nêu trên, đến nay Tin Mừng được rao giảng trên đất
nước Việt Nam đã được 584 năm (1533-2017). Trong hơn năm thế kỷ đó, có 40 năm Dậu.
Nhân dịp Xuân về,
đón năm mới Đinh Dậu, nhìn lại những sự kiện trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo tại
Việt Nam diễn ra trong các năm Dậu, vừa như một cách chào năm Đinh Dậu 2017, vừa
để “ôn cố tri tân”.
* * *
THẾ KỶ 16
Ất Dậu 1585
- Hai Linh Mục
Luis de Fonseca, O.P. (Bồ Đào Nha) và Grégoire de la Motte, O.P. (Pháp) từ
Malacca tới Việt Nam năm 1580, giảng đạo tại Quảng Nam thời Chúa Nguyễn Hoàng
suốt 6 năm đi truyền đạo tại Quảng Nam đời Chúa Nguyễn Hoàng vào thời gian
1580-1586. Năm 1585 (Ất Dậu), Cha Fonseca bị binh lính của Chúa Nguyễn Hoàng
sát hại lúc ngài đang dâng Thánh Lễ. Năm sau (1586), Cha Grégoire de la Motte
cũng bị sát hại.
THẾ KỶ 17
Ất Dậu 1645
- Cha Alexandre de Rhodes (Ðắc Lộ) bị Chúa Nguyễn (lúc đó là Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan) trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam. Ngày 3/7/1645 Cha Alexandre de Rhodes (Ðắc Lộ) rời Đàng Trong đi Macau. Đến nơi, cha bắt tay viết Tường Trình về Đàng Trong và được ấn hành tại Paris năm 1652. Sách dày 135 trang. Đây là bản phúc trình hoạt động của Cha Đắc Lộ ở Đàng Trong trong các năm 1644-1645. Trong sách, ngài kể lại cuộc bách hại đạo năm 1644 và cuộc tử đạo của thày giảng Anrê Phú Yên.
- Tháng 12/1645, Cha Đắc Lộ từ Macau đi Roma. Đến nơi, ngài phúc trình cho Tòa Thánh về những tiến triển mau chóng trong việc truyền giáo tại Việt Nam, nhất là xin Tòa Thánh gửi một số giám mục đến cánh đồng phì nhiêu này để củng cố nền móng Giáo Hội. Cha mang theo thủ cấp của thầy giảng Anrê Phú Yên (chịu tử đạo năm 1644 và được Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước vào ngày 5 tháng 3 năm 2000) về cất giữ tại Trụ Sở Trung Ương Dòng Tên ở Roma.
Quý Dậu 1693
- Ngày 1/7/1693, Đức
Cha Deydier (Hội Thừa Sai Paris), Đại Diện Tông Tòa Đông Đàng Ngoài (nay là
giáo phận Hải Phòng), qua đời. Sau đó, vào năm 1696, Tòa Thánh đặt các giám mục
xuất thân từ Dòng Đa Minh đảm nhiệm Đại Diện Tông Tòa, bắt đầu từ Đức Cha
Raimondo Lezzoli, O.P.
THẾ KỶ 18
Ất Dậu 1765
- Dòng Thánh Augustinô kết thúc hoạt động truyền giáo tại VN, sau hơn 60 năm (1701-1765), với 15 vị thừa sai - trong đó có Giám Mục Ilario Costa di Gesu (1735-1754), 6 linh mục Việt Nam, và 2 linh mục khác, người Bồ Đào Nha, hoạt động tại khu vực Cửa Hàn (Đà Nẵng), làm tuyên úy cho cộng đoàn nhỏ bé người Bồ Ðào Nha phần nhiều là những thương gia đi qua đi lại, hoặc trú ngụ tại đó từ trước năm 1596.
- Năm Ất Dậu 1765, Chúa Trịnh Doanh (1740-1767) ra sắc chỉ cấm đạo (trước đó, năm Giáp Tuất 1754, ông Chúa Trịnh này đã có sắc chỉ cấm đạo).
- Năm sinh của Thánh Đa Minh Xuân (Dominicus Henarès), giám mục, tử đạo. Ngài sinh năm 1765 tại Baena, Cordova, Tây Ban Nha, Dòng Ða Minh. Ngài là Giám Mục Phụ Tá Đại Diện Tông Tòa Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 25/06/1838 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Minh Mạng, được Ðức Lêô XIII phong chân phước ngày 27/05/1900, và Đức Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh ngày 19-6-1988.
THẾ KỶ 19
Ất Dậu 1825
Vua Minh Mạng
truyền cho quan Biện Hiệp ra Chỉ Dụ riêng cho quan trấn Quảng Nam về việc phải
tăng cường ngăn chặn việc truyền bá đạo Công Giáo:
Nội dung chỉ dụ:
“Quan Biện Hiệp vâng lệnh Hoàng Thượng truyền rằng: Tà đạo của người Âu Châu làm hư hỏng lòng người. Từ lâu các thuyền Âu Châu khi đến buôn bán đã để lại nhiều thừa sai trong nước. Những đạo trưởng này dụ dỗ và làm hư hỏng nhân dân, đồng thời sửa đổi và phá đổ các tập tục tốt lành trong nước. Như thế không phải là một cái họa cho chúng ta sao? Chính vì thế, chúng ta cần phải chống lại tệ nạn này để dẫn đưa nhân dân trở về chính đạo. Vì lẽ đó, chúng tôi, các quan hằng tuân giữ các lệnh truyền của hoàng thượng, gửi cho quan trấn thủ Quảng Nam chỉ dụ của vua để khi có tàu Pháp đến thì phải chú tâm xem xét cẩn thận. Hơn nữa, cũng phải canh chừng cẩn thận các quan ải trên núi, dưới đất hay cửa biển hầu ngăn chặn bất cứ đạo trưởng Âu Châu nào lén lút xâm nhập để họ không thể trà trộn trong dân chúng và gieo rắc tà đạo trong đất nước. Các đạo trưởng này kế tiếp nhau không gián đoạn và coi đó như là một việc thông thường. Minh Mệnh năm thứ sáu, ngày 1, tuần trăng thứ nhất (12.2.1825).”
Đinh Dậu 1837
Thánh Gioan Tân (Jean Charles Cornay), sinh năm 1809 tại Loudun, Poitiers, Pháp, linh mục thuộc Hội Thừa Sai Paris, địa phận Tông Tòa Tây Ðàng Ngoài, bị xử lăng trì ngày 20/09/1837 (đời vua Minh Mạng) tại Sơn Tây.
Ất Dậu 1885
- Đức Mẹ hiện ra
che chở các tín hữu Trà Kiệu trong hai ngày 10 -11/9/1885 (Ất Dậu) giữa cơn
nguy biến do Văn Thân gây ra.
Về biến cố này,
trang tin điện tử của Giáo Phận Đà Nẵng viết:
“Trà
Kiệu có một bề dày lịch sử cả đạo lẫn đời. Về lịch sử dân sự, Trà Kiệu nguyên
là kinh đô Simhapura (Sư Tử Thành) của Vương Quốc Champa vào cuối thế kỷ II sau
Công Nguyên. Nhiều hiện vật khảo cổ cũng đã được phát hiện dưới lòng đất trong khu vực này; mà hiện nay,
một số tượng đá thời Vương Quốc Champa đã được thu tập và hình thành một “bảo
tàng Chămpa” nho nhỏ tại Nhà Xứ Trà Kiệu, do công của Cha Antôn Nguyễn Trường
Thăng (Quản Xứ Trà Kiệu từ 1975-1989).
Về
lịch sử giáo hội Công Giáo, Trà Kiệu và cộng đoàn Dân Chúa Trà Kiệu được biết đến
như là “chứng nhân đức tin” trong thời kỳ bách hại, với những cuộc tấn công
không ngừng nghỉ của lực lượng “Văn Thân” nhằm triệt phá xứ đạo này. Cũng chính
trong bối cảnh bị bách hại đó, Trà Kiệu đã được biết đến vì được “ơn lạ” của
Thiên Chúa: Đức Mẹ đã hiện ra để che chở và giải thoát đoàn con cái Chúa đang
trong cơn nguy biến (ngày 10-11/9/1885). Và cũng từ biến cố này, một ngôi đền
được dựng nên trên ngọn đồi Bửu Châu (cách Nhà Thờ Xứ Trà Kiệu khoảng 500 m) để
kính nhớ và dâng tiến Đức Trinh Nữ Maria với tước hiệu “Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo
Hữu”.
Năm
1958, Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, đương nhiệm Giám Mục Quy Nhơn, đã chọn
Trà Kiệu làm Trung Tâm Thánh Mẫu của Giáo Phận Quy Nhơn và đã tổ chức Đại Hội
Thánh Mẫu đầu tiên tại Trà Kiệu từ ngày 31/1 đến 02/02/1959. Bốn năm sau (18/01/1963), khi tân Giáo Phận
Đà Nẵng được thành lập, tách khỏi Giáo Phận Mẹ Quy Nhơn, Trà Kiệu đã trở thành
Trung Tâm Thánh Mẫu của tân giáo phận. Đại Hội Thánh Mẫu lần II được tổ chức từ
ngày 29/5-31/5/1971 cũng do Đức Cha Phêrô-Maria Phạm Ngọc Chi, lúc này là Giám
Mục Chính Tòa Giáo Phận Đà Nẵng.
Từ
đó, hằng năm vào ngày Lễ Đức Mẹ Đi Viếng 31/5, như một thông lệ, giáo dân từ
các nơi tìm đến với Mẹ Trà Kiệu. Đại Hội Thánh Mẫu Trà Kiệu lần III chính thức
được tổ chức nhân dịp kỷ niệm 110 năm Đức Mẹ hiện ra vào chính ngày 31/5 với
khoảng 35.000 khách hành hương tham dự.
Kể cả trong thời kỳ khó khăn, vẫn có những kỳ đại hội tiếp theo: lần IV
(năm 1997), lần V (Năm Thánh 2000) và hằng năm vẫn được tổ chức với lượng người
tham dự mỗi năm một thêm đông. Mỗi kỳ đại hội, ngoài cuộc kiệu rước trọng thể
cung nghinh Mẹ Trà Kiệu từ nhà thờ xứ xuống Nhà Thờ Núi, những buổi diễn nguyện
tôn vinh Đức Mẹ và Thánh Lễ đại trào; cộng đoàn dân Chúa và khách hành hương lại
có dịp sống gần Mẹ và sống gần nhau trong tâm tình tạ ơn, khẩn nguyện và quyết
sống trọn vẹn đời sống chứng tá đức tin, như các bậc tiền nhân anh dũng.
Hiện nay, ngoài dịp đại hội hằng năm (bắt đầu từ chiều 30/5 và kết thúc vào chiều 31/5), mọi ngày trong năm đều có khách hành hương từ mọi nơi đến viếng Mẹ, đặc biệt từ đầu tháng 5 đến hết tháng 8 dương lịch.”
Tân Dậu 1861
Diễn ra 9 cuộc tử
đạo (đời vua Tự Ðức) của các thánh:
- Thánh Giám Mục
Gioan Ven (Jean Théophane Vénard), sinh năm 1829 tại St. Loup-sur-Thouet,
Poitiers, Pháp, thuộc Hội Thừa Sai Paris, đại diện Tông Tòa Tây Ðàng Ngoài, bị
xử trảm ngày 2/02/1861 tại Ô Cầu Giấy (Hà Nội).
- Thánh Phêrô
Nguyễn Văn Lựu, sinh năm 1812 tại Gò Vấp, Gia Ðịnh, linh mục địa phận Tông Tòa
Tây Đàng Trong, bị xử trảm ngày 7/04/1861 tại Mỹ Tho.
- Thánh Giuse
Tuân, Sinh năm 1821 tại Trần Xá, Hưng Yên, linh mục Dòng Ða Minh, bị xử trảm
ngày 30/04/1861 tại Hưng Yên.
- Thánh Gioan
Ðoàn Trịnh Hoan, sinh năm 1798 tại Kim Long, Thừa Thiên, linh mục, bị xử trảm
ngày 26/05/1861 tại Ðồng Hới (Quảng Bình).
- Thánh Matthêu
Nguyễn Văn Phượng (Ðắc), sinh năm 1808 tại Kẻ Lái, Quảng Bình,trùm họ, bị xử trảm
ngày 26/05/1861 tại Ðồng Hới (Quảng Bình).
- Thánh Phêrô
Bình (Petrus Almato), sinh năm 1830 tại San Feliz Saserra, Tây Ban Nha, linh mục
Dòng Ða Minh, phục vụ tại địa phận Tông Tòa Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày
1/11/1861 tại Hải Dương.
- Thánh Giám Mục
Vinh (Berrio Ochoa), sinh năm 1827 tại Elorrio (Vizcaya), Tây Ban Nha, Dòng Ða
Minh, đại diện Tông Tòa Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 1/11/1861 tại Hải Dương.
- Thánh Giám Mục
Thể (Etienne Théodore Cuénot), sinh năm 1802 tại Belieu, Besancon, Pháp, thuộc
Hội Thừa Sai Paris, đại diện Tông Tòa Ðông Ðàng Trong, chết rũ tù ngày
14/11/1861 tại Bình Ðịnh.
- Thánh Giuse
Nguyễn Duy Khang, sinh năm 1832 tại Trà Vi, Nam Ðịnh, thầy giảng Dòng Ba Ða
Minh, bị xử trảm ngày 6/12/1861 tại Hải Dương.
THẾ KỶ 20
Kỷ Dậu 1909
- Ngày
11/04/1909, Ðức Giáo Hoàng Piô X phong chân phước cho 15 vị Tử Ðạo Việt Nam (xếp
theo năm tử đạo):
Dưới
đời vua Thiệu Trị:
+
Inê Lê Thị Thành (Ðê), sinh năm 1781 tại Bái Ðền, Thanh Hóa, giáo dân, chết rũ
tù ngày 12/07/1841 tại Nam Ðịnh.
+
Phêrô Phạm Khanh, sinh năm 1780 tại Hòa Duệ, Nghệ An, linh mục, bị xử trảm ngày
12/07/1842 tại Hà Tĩnh.
Dưới
đời vua Tự Đức:
+
Giuse Nguyễn Văn Lựu, sinh năm 1790 tại Cái Nhum, Vĩnh Long, trùm họ, chết rũ
tù ngày 2/05/1854 tại Vĩnh Long.
+
Anrê Nguyễn Kim Thông (Năm Thuông), sinh
năm 1790 tại Gò Thị, Bình Ðịnh, thầy giảng, chết rũ tù ngày 15/07/1855 tại Mỹ
Tho.
+
Lôrensô Nguyễn Văn Hưởng, sinh năm 1802 tại Kẻ Sài, Hà Nội, linh mục, bị xử trảm
ngày 13/02/1856 tại Ninh Bình.
+
Phaolô Lê Bảo Tịnh, sinh năm 1793 tại Trịnh Hà, Thanh Hóa, linh mục, bị xử trảm
ngày 6/04/1857 tại Bảy Mẫu (Nam Định).
+
Micae Hồ Ðình Hy, sinh năm 1808 tại Như Lâm, Thừa Thiên, giáo dân, Quan Thái Bộc,
bị xử trảm ngày 22/05/1857 tại An Hòa (Huế).
+
Phanxicô Trần Văn Trung, sinh năm 1825 tại Phan Xã, Quảng Trị, giáo dân, cai đội,
bị xử trảm ngày 6/10/1858 tại An Hòa (Huế).
+
Phaolô Lê Văn Lộc, sinh năm 1830 tại An Nhơn, Gia Ðịnh, linh mục, bị xử trảm
ngày 13/02/1859 tại Gia Ðịnh.
+
Emmanuel Lê Văn Phụng, sinh năm 1796 tại Ðầu Nước, Cù Lao Giêng, giáo dân, trùm
họ, bị xử trảm ngày 31/07/1859 tại Châu Ðốc (An Giang).
+
Phêrô Ðoàn Công Quý, sinh năm 1826 tại Búng, Gia Ðịnh (nay thuộc Bình Dương),
linh mục, bị xử trảm ngày 31/07/1859 tại Châu Ðốc (An Giang).
+
Phêrô Bắc (Pierre Franҫois Neron), sinh
năm 1818 tại Bornay, Saint-Claude, Pháp, Hội Thừa Sai Paris, linh mục địa
phận Tông Tòa Tây Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 3/11/1860 tại Sơn Tây.
+
Matthêu Nguyễn Văn Phượng (Ðắc), sinh năm 1808 tại Kẻ Lái, Quảng Bình, trùm họ,
bị xử trảm ngày 26/05/1861 tại Ðồng Hới (Quảng Bình).
+
Ðức Cha Thể (Etienne Théodore Cuénot), sinh năm 1802 tại Belieu, Besancon,
Pháp, Giám Mục Hội Thừa Sai Paris, địa phận Tông Tòa Ðông Ðàng Trong, chết rũ
tù ngày 14/11/1861 tại Bình Ðịnh.
+ Giuse Nguyễn Duy Khang, sinh năm 1832 tại Trà Vi, Nam Ðịnh, thầy giảng Dòng Ba Ða Minh, bị xử trảm ngày 6/12/1861 tại Hải.
- Ngày 12-6-1909, ba linh mục của Giáo Phận Vinh bị chính quyền thực dân Pháp bắt, đày đi Côn Đảo vì tham gia chống Pháp: Đậu Quang Lĩnh, thư ký tòa giám mục; Nguyễn Thần Đồng, Chính Xứ Chính Tòa Vinh; Nguyễn Văn Tường, Quản Lý Nhà Chung Xã Đoài.
Quý Dậu 1933
- Ngày 10/1/1933, Đức Giáo Hoàng Pio XI bổ nhiệm Linh Mục GB Nguyễn Bá Tòng (địa phận Tông Tòa Sài Gòn) làm Giám Mục Phó Đại Diện Tông Tòa Phát Diệm, và ngày 11/6/1933, đã diễn ra lễ tấn phong giám mục tại Ðền Thánh Phêrô, do Ðức Giáo Hoàng Piô XI chủ phong. Đức Cha Nguyễn Bá Tòng trở thành vị giám mục Việt Nam tiên khởi, sau đúng 400 năm Tin Mừng được rao giảng tại Việt Nam (1533-1933).
Ất Dậu 1945
- Ngày 14/6/1945, Tòa Thánh bổ nhiệm Linh Mục Anselmo Lê Hữu Từ, bề trên Ðan Viện Xitô Phước Sơn (Nho Quan), làm Giám Mục Đại Diện Tông Tòa Phát Diệm. Ngài là vị giám mục thứ năm người Việt Nam, sau bốn vị trước đó: Đức Cha G.B. Nguyễn Bá Tòng (1933), Đức Cha Đa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn (1935), Đức Cha Phêrô Martinô Ngô Đình Thục (1938), Gioan Maria Phan Đình Phùng (1940).
- Ngày 29/10/1945, ngài được Đức Cha G.B. Nguyễn Bá Tòng (chủ phong) và Đức Cha Đa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn (phụ phong) tấn phong giám mục tại Phát Diệm.
Đinh Dậu 1957
- Sau 169 năm rời khỏi Việt Nam (1788-1957), năm 1957, các tu sĩ Dòng Tên được Giáo Hội Việt Nam mời trở lại. Ngày 13/9/1958, Dòng Tên nhận trách nhiệm điều khiển Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X tại Ðà Lạt, đồng thời khuếch trương nhiều hoạt động khác nhau trong các lãnh vực văn hóa xã hội.
- Ngày 5/7/1957, Đức Giáo Hoàng Piô XII thiết lập Giáo Phận Tông Tòa Nha Trang, và đặt Đức Cha Paul Raymond-Marie-Marcel Piquet, thuộc Hội Thừa Sai Paris, làm Đại Diện Tông Tòa tiên khởi. Giáo phận mới gồm các tỉnh: Khánh Hòa và Ninh Thuận (được tách từ Giáo Phận Tông Tòa Quy Nhơn), Bình Thuận và Bình Tuy (được từ Giáo Phận Tông Tòa Sài Gòn).
Kỷ Dậu 1969
Dòng Phanxicô Việt Nam được nâng lên hàng Tỉnh Dòng, sau 40 năm được thành lập tại Việt Nam (1929-1969).
Tân Dậu 1981
- Ngày 24/3/1981, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm Linh Mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Sang, chính xứ nhà thờ Chính Tòa Hà Nội, làm giám mục phụ tá Tổng Giáo Phận Hà Nội.
- Ngày 26/3/1981, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm Linh Mục Phêrô Trần Thanh Chung, nguyên Giám Đốc Tiểu Chủng Viện Thừa Sai Kontum, làm giám mục phó Giáo Phận Kon Tum.
- Ngày 1/5/1981, Hội Đồng Giám Mục họp thường niên tại Hà Nội.
- Ngày 19/6/1981 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm Linh Mục Giuse Trinh Chính Trực, chính xứ nhà thờ Chính Tòa Ban Mê Thuột, làm giám mục phó Giáo Phận Ban Mê Thuột.
- Ngày 15/12/1981, Ðức Cha Giuse Nguyễn Thiện Khuyến, giám mục phó Giáo Phận Phát Diệm từ trần, thọ 81 tuổi.
Quý Dậu 1993
- Ngày 1/2/1993, phái đoàn Tòa Thánh, do Đức Ông Claudio Celli dẫn đầu, sang Việt Nam.
- Ngày 22/3/1993, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm Linh Mục G.B. Phạm Minh Mẫn, Giám Ðốc Đại Chủng Viện Thánh Quý (Cần Thơ), làm giám mục phó Giáo Phận Mỹ Tho.
- Ngày
18/10/1993, Đại Hội Thường Niên HĐGMVN lần đầu tiên họp tại Sài Gòn.
THẾ KỶ 21
Ất Dậu
2005
- Ngày 19/2/2005, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm Linh Mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, chính xứ Phú Hậu (Huế), làm giám mục phụ tá Tổng Giáo Phận Huế. Ngài là vị giám mục Việt Nam được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm, và gần hai tháng sau, ngày 2/4/2005, Đức Giáo Hoàng qua đời.
- Ngày
8/11/2005, Đức Tân Giáo Hoàng Bênêđictô XVI bổ nhiệm Linh Mục Giuse Võ Đức
Minh, chính xứ Chính Tòa Đà Lạt, làm giám mục phó Giáo Phận Nha Trang. Ngài là
vị giám mục Việt Nam đầu tiên được bổ nhiệm dưới thời Đức Tân Giáo Hoàng
Bênêđictô XVI (được bầu làm giáo hoàng ngày 19-4-2005).
Nhân năm mới
Đinh Dậu 2017 đang đến, giở lại những trang năm Dậu trong lịch sử Giáo Hội tại
Việt Nam, lòng bồi hồi nhớ đến các bậc tiền nhân đã mở mang, xây dựng Hội
Thánh, và cảm tạ Chúa về bao hồng ân cộng đoàn dân Chúa tại Việt Nam đã lãnh nhận.
Những biến cố
nào sẽ đến, những hồng ân nào sẽ lĩnh nhận trong năm mới Đinh Dậu và những năm
Dậu tương lai?
Tất cả đều trong
kế hoạch quan phòng đầy thương yêu của Chúa.
Và như thế, xin
mượn lời kinh trong Giờ Kinh Sáng cuối cùng của năm Phụng Vụ C4, như một xác
quyết dấn thân phụng sự, khi bước vào năm mới. Trong niềm cảm tạ. Trong niềm
hăng say mới.
Cảm tạ và hăng
say đón lấy mọi kế hoạch của Chúa:
“Xin Chúa Kitô
biến chúng ta thành những người biết đem lại bình an cho đồng loại.
Nơi nào có oán
ghét hận thù,
Xin giúp con xây
dựng tình thương.
Nơi nào có khinh
khi nhục mạ,
Xin giúp con
mang lại thứ tha.
Nơi nào có mâu
thuẫn bất đồng,
Xin giúp con nên
người hòa giải.
Nơi nào có giả dối
sai lầm,
Xin giúp con rao
truyền chân lý.
Nơi nào có hoài
nghi ngờ vực,
Xin giúp con củng
cố đức tin.
Nơi nào có nản
chí sờn lòng,
Xin giúp con
gieo niềm hy vọng.
Nơi nào có bóng
tối mây mù,
Xin giúp con
khơi nguồn ánh sáng.
Nơi nào có u sầu
buồn bã,
Xin giúp con đem
lại an vui.”
Tài liệu tham khảo:
1. LM Giuse Vũ
Thành ‘Dòng Máu Anh Hùng’ 1,2,3. Phong trào Thanh Sinh Công Việt Nam tại Hoa Kỳ
xuất bản, 1987.
2. LM Trịnh Việt
Yên, ‘Máu Tử Đạo Trên Đất Việt Nam’ Ủy Ban Quốc Gia chuẩn bị Phong Thánh in lại
và phát hành, Hoa Kỳ 1987.
3. LM Nguyễn Hồng,
‘Lịch Sử Truyền Giáo Việt Nam’ c.I, nhà xuất bản Hiện Tại, Sài Gòn, 1965.
4. LM Phan Phát
Huồn, ‘Việt Nam Giáo Sử’ q.I, in lần 2, Cứu Thế Tùng Thư, Sài Gòn, 1965.
5. LM Trương Bá
Cần, ‘Lịch Sử Phát Triển Công Giáo ở Việt Nam’ I, II, nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà
Nội, 2008.
6. Launay, A,
MEP, ‘Histoire Générale de la Société des Missions Étrangères, 3 volumes, Paris
1894.
7. Louvet, L .E.
‘La Cochinchine Religieuse’, 2 volumes, Paris, 1885
8. Trần Trọng
Kim, ‘Việt Nam Sử Luợc’ c.II, Bộ Giáo Dục xuất bản, Sài Gòn, 1971.
9. Hà Văn Thư,
Trần Hồng Đức, ‘Tóm Tắt Niên Biểu Lịch Sử Việt Nam’, nhà xuất bản Văn Hóa Thông
Tin, Hà Nội, 2010.
——————————
1 Quyển thứ 33 của Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương
Mục - Chính Biên, chép sử “Từ Quý Mão, năm Cảnh Trị thứ nhất (1633) đến Ất Mão,
Lê Gia Tông, năm Đức Nguyên thứ hai (1675), gồm 13 năm”.
2 Sách Dã Lục: sách do tư nhân, chứ không do sử quan
viết (chính biên).
3 Nam Chân và Giao Thủy nay thuộc tỉnh Nam Định
4 Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ.