Người Tuyên Úy Thầm Lặng
Người đàn ông Mỹ với mái tóc trắng xoá và đôi mắt sáng quắc
sau cặp kính trắng cứ chăm chú nhìn tôi như muốn dò hỏi một điều gì thầm
kín. Tóc ông bạc nhưng không hói như bao
nhiêu người Mỹ tôi thường gặp. Dáng vóc
trông vừa mảnh khảnh lại vừa khác thường bởi bờ vai trái của ông xệ hẳn xuống
như một kẻ tật nguyền. Ông ngồi đó, đối
diện với tôi nơi bàn cơm tối trong một nhà ăn tu viện ở Washington. Qua ánh mắt, tôi dự đoán có lẽ trong thâm tâm
ông đang thắc mắc: “Anh có phải là người Việt Nam không?" Hoặc là : "Anh đến đất Mỹ này lâu
chưa? Tại sao anh lại ở nơi đây, nơi một
cộng đoàn của người Mỹ?”
Thầm đoán vu vơ những câu hỏi đại khái như thế, rồi tôi
cũng mạnh dạn nhìn thẳng vào ông như muốn phải ứng:
Không biết cái ông này đang thắc mắc gì vậy? Ông muốn hỏi thăm về quê hương tôi, hay ông
đang muốn tâm sự một nỗi niềm trong chiến tranh Việt Nam mà ông đang ấp ủ trong
lòng như bao cựu chiến binh khác.
Trầm ngâm với dòng suy tư của người muốn hỏi cũng như kẻ
đang sẵn sàng phản ứng. Một không khí lặng
lẽ giữa hai con người không cùng chủng tộc nhưng lại đang muốn thăm dò về
nhau. Bàn ăn có chừng tám người, nhưng
những người ngồi quanh bàn hôm nay lại đang say mê với chuyện khủng bố ở Trung
Tâm Thương Mại Thế Giới và của Lầu Năm Góc tuần qua. Riêng người đàn ông này dường như chẳng quan
tâm nhiều đến chuyện thời sự sốt dẻo. Bất
chợt, ông nhổm dậy, vụng về đẩy chiếc ghế ra khỏi bàn ăn và làm nó té sầm trên
sàn nhà. Cả phòng ăn nhớn nhác quay lại
phía người đàn ông hơi vụng về ấy như xem thử có gì đã xảy ra. Vì sau cuộc tấn công kinh hoàng ở New York,
thì mỗi tiếng động, mỗi âm thanh lạ đều tạo nên một nỗi hoang mang, sợ hãi. Có lẽ vì thế mà âm thanh của một chiếc ghế đổ
trên sàn nhà cũng làm cho mọi người nhớn nhác.
Còn người đàn ông ấy thì lại nở một nụ cười nhẹ nhàng và dơ tay như thầm
xin lỗi tất cả cho sự vụng về ấy. Cúi xuống
dựng chiếc ghế đổ dậy, ông ta tiến về phía chỗ tôi ngồi và mở đầu một câu hỏi
đúng ngay như câu hỏi tôi đã dự đoán:
- Anh có phải là người Việt Nam không?
- Vâng, tôi là người Việt Nam. Tôi tự tin trả lời.
- Tôi là Philip Lucid, Father Lucid. Ông ta tự giới thiệu.
- Dạ, chào Cha Lucid, con là Thảo Nam. Tôi bối rối chào ngài.
Rồi kéo một chiếc ghế trống của bàn bên cạnh, tôi lịch sự
mời ngài ngồi. Trong lòng hơi bối rối,
hóa ra ông này là một Linh mục. Vậy mà
lúc nãy tới giờ tôi cứ nhìn vào ông với ánh mắt có vẻ nghi ngờ. Vừa ngồi xuống, ông ta vào đề ngay:
- Anh có biết An
Khê không?
Tôi hơi ú ớ, chắc ngài đang hỏi một từ Latinh nào
chăng? Rồi tôi hỏi lại:
- Xin cha hỏi lại ạ, con nghe chưa rõ.
- Anh có biết An Khê ở Việt Nam hay không? Ông lập lại.
Tôi chợt hiểu, à thì ra ngài đang hỏi thăm một địa danh ở
Miền Trung Việt Nam.
Tôi đáp ngay:
- Dạ con có nghe về An Khê, nhưng chưa bao giờ đến
đó. Dường như đó là một vùng thuộc về Miền
Trung Việt Nam.
- Đúng rồi, có lẽ An Khê ở gần Đà Nẵng. Đã quá lâu rồi nên tôi không còn nhớ rõ. Tôi chỉ biết rằng mình đã ở đó hai năm và
cũng là lúc tôi bị bắn gục trên chiến trường An Khê.
Ngài nói trong đôi mắt trầm buồn. Mắt ngài trầm buồn, nhưng mắt tôi lại tròn
xoe kinh ngạc nên bắt đầu tuôn một loạt câu hỏi dồn dập:
- Tại sao Cha lại ở bên Việt Nam? Ngày xưa Cha đi lính hả? Cấp bậc là gì vậy?
- Vâng. Tôi mang
lon đại úy, là tuyên úy quân đội. Tôi
tình nguyện qua Việt Nam năm 1968, sau khi chịu chức. Phục vụ tại An Khê hai năm. Rồi trong một trận hành quân ở đó cùng những
người lính Mỹ trẻ, họ chỉ mới 17-18 tuổi đầu, phần đông vừa xong trung học chưa
biết đời là gì. Tôi thương bọn trẻ nên
xin phép ra ngay chiến trường vừa đi bên cạnh họ và vừa đi xức dầu trong lúc khẩn
cấp cho những người bị thương và hấp hối.
Rồi trong một trận đánh quá căng với Việt Cộng, lính tráng ngã nhiều
quá. Tới phiên một cậu lính rất trẻ bị
trúng đạn và ngã xuống, tôi vì cúi xuống bế cậu lên mong kéo qua nơi an toàn
hơn để băng bó và xức dầu, thì một viên đạn xuyên qua bả vai tôi, và viên đạn
thứ hai xuyên qua ngực cậu lính đang bị thương trên tay. Tôi gục xuống, buông cậu lính trẻ ra khỏi tay
và cố gượng sức dùng ngón tay viết một dấu Thánh Giá trên trán cậu, rồi nhìn cậu
hấp hối, tắt thở! Rồi tôi cũng lịm ngất
trong cơn đau.
Hình ảnh ấy vẫn mãi ghi đậm trong tôi suốt cả một đời linh
mục. Bây giờ nghĩ lại, đó cũng là những
chuỗi ngày đẹp nhất, ý nghĩa nhất trong đời linh mục của tôi. Đổ máu như Đức Kitô đã đổ máu. Và quê hương Việt Nam vẫn là niềm khắc khoải
trong tôi một đời. Tôi vẫn mong có ngày
trở lại trên mảnh đất thân yêu ấy.
Tôi lặng người khi nghe những dòng tâm sự thiết tha ấy. Cả hai nhìn nhau thinh lặng, không phải cái
thinh lặng ban đầu gặp gỡ với dò hỏi thắc mắc, mà là thinh lặng cảm thông, yêu
mến và khâm phục. Tôi nhìn thấy từng giọt
nước mắt xúc động lăn dài trên đôi má gầy gò của ngài làm tôi cũng không cầm nổi
xúc động. Lần đầu tiên trong đời, tôi thấy
những giọt nước mắt của người Linh mục. Rồi cầm tay ngài tôi nói:
- Cám ơn Cha vì những giọt máu đã đổ trên quê hương
con. Cám ơn Cha đã chia sẻ và cho con một
mẫu gương của đời hiến dâng phục vụ thật ý nghĩa. Lúc nào có dịp, con mời cha trở lại Việt Nam
quê hương con, có lẽ bây giờ cũng đã thay đổi nhiều lắm rồi.
Ngài nhìn tôi trong ánh mắt thân tình trìu mến của đôi mắt
mục tử. Gạt giọt nước mắt còn đọng lại
trên má, Ngài mỉm cười khẽ nói:
- Mỗi người có một nẻo đường phục vụ riêng, có một lối đổ
máu riêng, miễn sao tình yêu của Đức Kitô được rao truyền, không những rao truyền
trên bục giảng, nhưng còn đụng chạm đến trái tim của những người mà mình được
sai đến.
Từng lời ấy thấm vào hồn tôi như một ánh than rực hồng, gợi
cho tôi nhớ đến hình ảnh của một Linh Mục Giêsu trần trụi trên ‘‘bàn thờ’’
Canvê năm xưa: không đèn nến, không màu hoa, không hương khói, không vải vóc
che phủ, không một lời thánh ca vang vọng, chỉ có tiếng rên của niềm đau nhức
nhối và những giọt máu loang lỗ thấm đẫm ngọn đồi. Rồi tôi cũng cố gắng hình dung một "bàn
thờ" An Khê trần trụi, mịt mùng trong khói thuốc; tiếng bom đạn long trời
và tiếng rên đau xót của bao con người với từng giọt máu loang lổ từ bờ vai
Linh Mục Giêsu thứ hai trong dáng dấp của người tuyên úy thầm lặng. Dù là một Canvê năm xưa, hay một An Khê ngày
nay, vẫn vang vọng đâu đây điệp khúc của bài Tình Ca Thập Tự, khúc tình ca với
dòng nhạc dâng hiến trao ban.
Còn hình ảnh nào đẹp hơn hình ảnh những giọt máu đã đổ vì
chân lý, vì yêu thương. Giọt máu nối dài
từ ven đồi Canvê năm xưa, chảy dài trong dòng suối yêu thương của cuộc đời, và
thấm đến quê hương tôi bởi những giọt róc rách ân tình từ trái tim người Linh Mục
mà tôi gặp gỡ lần đầu tiên nơi bàn ăn bất ngờ ấy.
Xin cho những Thánh Lễ Ngài dâng mỗi ngày hôm nay vẫn thấm
đượm yêu thương và sốt mến như "Thánh Lễ" đổ máu mà Ngài đã dâng trên
chiến trường An Khê năm xưa. Xin cho những
nỗi đau của Việt Nam quê hương con cũng được hoà dâng trong hy lễ hiến tế ấy. Nỗi đau của mất mát chia ly, nỗi đau của tật
nguyền bom đạn một thời, và những nỗi đau của bất công trong hiện tại
v.v... Tất cả là những giọt máu của lễ
dâng, dâng với Linh Mục Giêsu, dâng trong Giêsu và dâng nhờ Giêsu.
Xin gởi trao dòng yêu thương này vào lòng cuộc đời. Xin gởi bức hình đẹp này đến với những trái
tim đang rực lửa yêu thương, hiến dâng cho nhân loại khổ đau, và gởi đến cho tất
cả những ai đang thầm lặng dấn thân cho yêu thương lan rộng, cho tình người nở
tươi, cho những cuộc đời hiu quạnh gặp được ánh sáng của niềm tin và hy vọng
trong bóng tối của đêm dài lữ hành.
Nguyễn Thảo Nam,S.J.
Trích từ MeMaria.org