Ðức Mẹ Ðã Cứu Con Hai Lần
Sau
ngày 30-4-1975, tôi bị đưa đi tập trung cải tạo như những người khác. Quanh quẩn
hai, ba trại ở Miền Tây, đến đầu năm 1976, tôi bị đưa ra Bắc, đến trại Phong
Quang, tỉnh Hoàng Liên Sơn. Cuộc đời khốn khổ của một người tù biệt xứ bắt đầu từ đó.
Năm 1979 bị chuyển về trại Phú Sơn (Bắc Thái); ở đó một thời gian, lại chuyển về
trại Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh. Qua các trại cải tạo khắc nghiệt, với biết bao
cơ cực và đói khổ, nhưng tôi vẫn sống được, nhờ vào lòng tin yêu, phú thác và cậy
trông vào Chúa và Ðức Mẹ.
Năm
1985, tôi được tha về với gia đình, đang sống ở Cần Thơ. Gia đình tôi lúc này
đã quá kiệt quệ, vợ chồng chúng tôi dù đã hết sức tần tảo, cũng chỉ đủ ăn qua
ngày; tương lai của ba đứa con chúng tôi quá mù mịt. Riêng tôi, bị phân biệt đối
xử, bị làm khó dễ đủ điều; muốn ăn yên ở yên cũng không được. Tôi quyết định đi
tìm tự do và tương lai cho gia đình tôi. Chúng tôi phú thác trong tay Ðức Mẹ
chuyến đi mười chết, một sống của tôi.
Buổi
tối, trước ngày tôi rời gia đình ra đi, vợ chồng cha con chúng tôi quỳ trước
bàn thờ Ðức Mẹ, lần hạt và cầu xin Ðức Mẹ phù hộ cho chuyến đi của tôi. Hôm
sau, tôi được hướng dẫn ra Ðà Nẵng. Ở đó vài ngày, vào một đêm tối trời, hơn 40
người lên một tàu đánh cá ở bãi biển Thanh Khê, và ra đi. Mọi chuyện bước đầu đều
suông sẻ. Tàu đi về hướng Phi Luật Tân. Qua ba ngày, hai đêm, biển lặng, gió nhẹ,
rất thuận lợi. Nhưng đến chiều ngày thứ tư, trời nổi cơn giông. Từng đợt sóng
cao ngất như muốn nuốt chửng con tàu nhỏ bé của chúng tôi. Thuyền nhô lên, thụt
xuống, nướt bắt đầu tràn vào. Trên tàu, người thì lo tát nước, người thì lấy áo
quần chèn vào những chổ rò rỉ. Ai cũng lo sợ tàu sẽ chìm, vì sóng to quá.
Trong
góc tàu, một vài phụ nữ đọc kinh và cầu xin Ðức Mẹ cứu vớt con tàu khốn khổ nầy.
Tôi vừa tát nước, vừa lâm râm cầu nguyện với Ðức Mẹ, xin Mẹ cho chúng con tai
qua nạn khỏi. Khoảng nửa đêm, cơn giông giảm dần, sóng cũng nhỏ dần. Mặt trăng
lưỡi liềm hiện ra trên bầu trời, ai cũng vui mừng, hớn hở. Tôi cám ơn Ðức Mẹ đã
cứu tôi, cứu mọi ngưới trên tàu.
Bỗng
nghe một người trên tàu la lớn: "Kìa, kìa có đảo!" Một chấm đen hiện
ra ở chân trời. Hoa tiêu hướng tàu đến đó. Gần sáng, tàu thả neo gần bờ của một
hòn đảo hoang, trên đảo toàn đá, chỉ lưa thưa một ít cây thấp. Khi mặt trời
lên, một số người lên đảo tìm nước uống. Một số khác bắt sò, bắt còng ven bãi
biển. Tôi cũng lên đảo, chạy chậm chậm dọc theo bãi biển cho thoải mái một
chút. Trở lại tàu, tôi thấy dưới hầm tàu, một cái "can" lớn đựng nước
uống đã trống không. Tôi nghịch ngợm, ôm cái "can" nhảy xuống biển.
Tôi bơi lui bơi tới, hít thở không khí trong lành trên biển một cách khoan
khoái. Tôi bơi từ từ dọc theo bãi biển. Bỗng nhiên có một luồng nước mạnh kéo
tôi ra xa bờ. Tôi ngoảnh lại nhìn con tàu và cố bơi về hướng đó. Nhưng dòng nước
kỳ lạ kia cứ kéo tôi đi xa dần con tàu...
Khoảng
một giờ sau tôi không còn thấy con tàu ở đâu nữa, hòn đảo cũng biến mất. Chung
quanh tôi chỉ còn nước và nước. Tôi cố la thật to, cố vùng vẫy để hy vọng có
người nào đó trên tàu thấy mà đến cứu. Nhưng vô vọng. Dòng nước quái ác kia vẫn
lừng lững đẩy tôi đi. Ðến xế chiều, tôi hoàn toàn tuyệt vọng. Chung quanh tôi
giờ đây chỉ có biển cả mênh mông. Tôi ôm chặt cái "can", nhờ nó tôi mới
sống được cho tới giờ phút nầy. Nhưng người tôi rã rời, chân tay lạnh cóng. Tôi
thấy cái chết đã gần kề. Hình ảnh vợ tôi, các con tôi hiện ra chập chờn trước mắt.
Tôi lại la hét, vùng vẫy giữa trời nước bao la. Bỗng tay tôi chạm vào tượng Ðức
Mẹ, mà tôi vẫn đeo ở cổ từ mấy năm nay, tôi chợt nhớ đến Ðức Mẹ. Tự nhiên tôi cảm
thấy bình tĩnh, tôi không la hét nữa. Tôi bắt đầu đọc kinh Kính Mừng và cầu xin
Ðức Mẹ cứu tôi.
Chiều
xuống dần. Mặt biển phẳng lặng, phủ một màu xám nhạt. Rồi màn đêm từ từ xuống.
Chung quanh tôi một màu đen dày đặc. Tôi đã kiệt sức, không còn la hét được nữa.
Dù hoàn cảnh đã quá tuyệt vọng, nhưng lạ thay, tôi vẫn tin rằng Ðức Mẹ sẽ cứu
tôi thoát chết. Run cầm cập, nửa tỉnh nửa mê, tôi vẫn lẩm nhẩm đọc kinh Kính Mừng.
Bỗng một luồng ánh sáng từ đâu đó rọi vào mặt tôi. Tôi bừng tỉnh, nhìn về phía
đã phát ra luồng ánh sáng, tôi quơ tay, kêu thét và quạt nước biển văng tung
toé. Qua cơn xúc động bất ngờ, tôi nhìn kỹ về phía phát ra luồng ánh sáng: Ôi
đó là một chiếc tàu, một chiếc tàu thật ư (?) hay là ảo ảnh, hay là tôi quá mơ
ước, nên trí tưởng tượng của tôi đã nghĩ ra chiếc tàu? Nhưng, rõ ràng tôi đã
nghe tiếng máy tàu, và tiếng nhiều người la hét trên tàu nữa. Chiếc tàu đã đến
gần tôi; ngay lúc đó tôi được vớt lên một chiếc xuồng cấp cứu nhỏ. Bao nhiêu
hơi sức còn sót lại, tôi đã la hét, vùng vẫy khi ánh đèn rọi vào mặt tôi, nên
giờ đây, nằm trên xuồng cấp cứu, tôi không cử động gì được nữa. Khi xuồng nhỏ cập
vào tàu lớn, hai thủy thủ phải khiêng tôi lên tàu. Vài người trên tàu phủ lên
người tôi một tấm nylon lớn, rồi đưa tôi vào một phòng trên tàu. Tôi được chuyền
"nước biển", cơn lạnh giảm dần, tôi cảm thấy dễ chịu, và thiếp đi.
Khi tỉnh dậy, chung quanh tôi nhiều người nhìn tôi vui mừng. Họ hỏi tôi điều gì
đó, nhưng tôi không hiểu (sau này tôi mới biết họ là người Ðan Mạch). Một người
đàn ông đứng tuổi đến hỏi tôi bằng tiếng Anh: "Trường hợp nào mà anh lại
trôi dạt giữa biển khơi như vậy?" Tôi đã kể lại cho họ nghe về chuyến đi
tìm tự do của tôi, và vì sao tôi lại lạc lõng giữa biển cả mênh mông như vậy.
Tôi cũng kể cho mọi người trên tàu biết rằng: Dù đã quá tuyệt vọng, tôi vẫn
kiên trì cầu xin Ðức Mẹ cứu tôi. Họ rất ngạc nhiên và xúc động.
Họ
cho tôi biết, đây là một thương thuyền của Ðan Mạch trên đường đi Hồng Kông, họ
tình cờ phát hiện có một người đang chơi vơi giữa biển; nhờ một anh thủy thủ
tinh nghịch quét ngọn đèn pha trên mặt biển, và thấy tôi đang bập bềnh với cái
phao nhựa. Ban đầu, khi nghe anh thủy thủ nói, có một người đang trôi trên mặt
biển, trên tàu không ai tin, thuyền trưởng cũng không tin, nhưng anh thủy thủ cứ
tiếp tục rọi đèn về phía tôi và tàu từ từ đến gần, cho tới khi mọi người thấy
tôi đang dật dờ, la hét vùng vẫy giữa biển...
Tôi
được mọi người trên tàu đối xử hết sức ưu ái, nhất là vị bác sĩ của tàu. Ông ta
rất trẻ, khoảng 30 tuổi, ngày nào ông cũng đến khám bệnh cho tôi và cho tôi dùng
mọi thứ thuốc tốt nhất mà ông đang có. Mỗi lần tiếp xúc với tôi, ông thường lẩm
bẩm: "Virgin Mary, Miracle!" (Ðức Nữ Trinh Maria, Ðúng là Phép Lạ!).
Nhờ ông ta tận tình chăm sóc, nên mấy ngày sau, tôi đã hoàn toàn bình phục. Tàu
ghé lại Hồng Kông hai ngày, rồi trở về Ðan Mạch. Sau mấy ngày lênh đênh trên biển,
tàu đã đến hải phận Ðan Mạch và đi vào hải cảng Copenhagen, thủ đô Ðan Mạch.
Tàu từ từ cập bến. Vị thuyền trưởng cho phép tôi là người đầu tiên xuống tàu.
Nhìn lên trên bến cảng, khá đông người hiếu kỳ đứng chen chút nhau. Ánh đèn máy
ảnh chớp lên lia lịa. Nhiều người la to chào đón tôi. Tôi vô cùng cảm động; vì
tôi chỉ là một kẻ sắp chết giữa biển khơi, được Ðức Mẹ cứu vớt, nay đang trở
thành một nhân vật đặc biệt trước mắt mọi người... Ðang miên man suy nghĩ, tôi
giật mình, vì có người gọi tên tôi; nhìn kỹ đó là linh mục Chu Huy Châu. Tôi chạy
ùa về phía Cha Châu, ôm chầm lấy ngài. Tôi đã khóc trên vai của Cha, Cha cũng
khóc. Chung quanh tôi, nhiều người cũng lau nước mắt. Tôi thưa với Cha Châu:
"Xin Cha tạ ơn Ðức Mẹ cho con, Ðức Mẹ đã cứu sống con hai lần trong chuyến
đi nầy". Cha Châu trả lời trong xúc động: "Cha biết, chỉ có Ðức Mẹ mới
làm được việc đó!"
Ðài
truyền hình Copenhagen đã thực hiện một phóng sự về việc tôi được cứu sống một
cách kỳ lạ trên biển cả mênh mông giữa đêm tối. Vài tờ báo ở địa phương thêm, bớt
một hai chi tiết để hấp dẫn độc giả. Tuy nhiên tất cả các cơ quan truyền thông
Ðan Mạch đều kết luận: "Ðức Mẹ từ bi nhân hậu, đã dang tay cứu vớt một người
Việt Nam bé nhỏ sắp chết giữa biển khơi, trên đường vượt biển tìm tự do."
Tác
giả: Bửu Uyển
Trích www.memaria.net