Các Vị Thánh Có Ngày Lễ Kính Trong Tháng Các Thánh và Các Linh Hồn
Để kết
thúc Tháng Các Thánh và Các Linh Hồn, sau đây là đôi dòng sơ lược về các vị thánh
có ngày lễ kính trong mấy tháng vừa qua. (Chuyển dịch từ báo điện tử Catholic
Northwest)
THÁNH AN RÊ (St Andrew)
Vị tông đồ thứ nhất của Chúa
Giêsu đã theo ngài cho đến khi chịu tử đạo
Thế kỷ thứ nhất
Lễ kính 30 tháng 11
Theo các
phúc âm của Thánh Matthêu và Thánh Maccô, Chúa Giêsu thấy An Rê và người anh của
ông là Simon Phêrô đang thả lưới cá trên biển Galilê và nói với họ: “Hãy theo tôi
rồi tôi sẽ làm cho các anh trở thành những ngư phủ tìm bắt người ta.” Phúc âm Thánh
Gioan nói An Rê là môn đệ của Gioan Tẩy Giả. Khi đang đi theo Chúa Giêsu thì An
Rê nghe Gioan gọi ngài là “Chiên Thiên Chúa.” Sau một ngày ở bên Chúa, An Rê đã
nói với anh, “Chúng tôi đã thấy đấng Messiah.” Theo tục truyền, Thánh An Rê đã
chịu đóng đinh tại Hy Lạp trên một thập giá hình chữ X, mà ngày nay đã trở thành
một biểu tượng đặc biệt, cũng là biểu tượng của xứ Scotland (Tô Cách Lan) mà Thánh
An Rê là quan thầy. Một số hài cốt của Thánh An Rê đã được đưa về Scotland vào
thế kỷ thứ tư, phần hài cốt còn lại nằm trong mồ hầm của Nhà Thờ Chính Toà
Amalfi, nước Ý, nơi mà người ta sản xuất một loại chất lỏng trong giống như nước
gọi là “manna”.
HAI NỮ THÁNH PERPETUA VÀ FELICITY
Hai thiếu nữ tử đạo bởi
tay của một chiến binh La Mã
Chết năm 203
Lễ kính: 7 tháng 3
Chịu tử
đạo tại Carthage, ngày nay thuộc nước Tunisia (miền bắc Phi Châu), hai thiếu nữ
này – Perpetua là người quý tộc, còn Felicity là nô lệ - họ ở trong số các dự tòng
vì không chịu thờ lạy Hoàng Đế La Mã, đã bị bắt và bị kết án ném cho dã thú ăn
thịt. Họ đã được rửa tội trong tù, tại đây Felicity cũng sinh được một bé gái. Tại
đấu trường Carthage, họ bị một con dã thú tấn công, nhưng không bị giết chết, nên
họ đã bị cắt cổ họng bởi một chiến binh La Mã.
THÁNH GIOAN MIỆNG VÀNG (St John
Chrysostom)
347 – 407
Lễ kính: 13 tháng 9
Sinh tại
Antioch, Thánh Gioan Miệng Vàng là một trong những nhà giảng thuyết tài giỏi
trong lịch sử giáo hội và là bậc tiền bối nổi tiếng nhất người Hy Lạp của giáo
hội. Sau khi được gặp đức giám mục thánh thiện Meletius, ngài học Sách Thánh và
các sách đạo đức khác trong ba năm, rồi được rửa tội và sống đời ẩn tu trong
hoang địa suốt hai năm. Trở về Antioch vì sức khoẻ kém, ngài được thụ phong
linh mục năm 386. Năm 398 ngài miễn cưỡng bị chỉ định làm đức thượng phụ giáo hội
miền Constantinople. Ngài được nổi tiếng nhờ tài giảng thuyết và lòng can đảm đối
mặt với đế quốc Byzantine (đế quốc La Mã miền đông). Không bao giờ nao núng, ngài
chỉ trích sự tham nhũng và đồi trụy của đế quốc này. Ngài chết tại nơi lưu đầy.
Nhiều bài viết của ngài còn tồn tại đến nay. Ngài được tôn vinh là một tiến sĩ
hội thánh.
NỮ THÁNH KATERI
“Bông huệ của dân Mohawk”
trở thành vị thánh đầu tiên của những người thổ dân Mỹ.
1656 – 1680
Lễ kính: 14 tháng 7
Trong
lễ phong thánh cho bà vào năm 2012, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã cầu nguyện:
“Lạy Thánh Kateri, đấng bảo trợ Canada và là vị thánh thổ dân Mỹ đầu tiên, chúng
con xin trao phó cho ngài sự đổi mới đức tin nơi các dân bản xứ và trong tất cả
miền Bắc Mỹ!”
Là con
gái của một tù trưởng bộ lạc Mohawk và một người đàn bà bộ lạc Algonquin,
Katerin trở thành mồ côi trong thời kỳ có dịch đậu mùa, khiến cho chính bà cũng
bị hầu như mù lòa và thân thể biến dạng. Bà được một linh mục Pháp rửa tội khi đến
thăm làng của bà tại miền New York. Nhưng vì đức tin và vì từ chối kết hôn, bà
gặp rắc rối, nên bà chạy trốn đến một cộng đồng da đỏ gần Montreal (Canada), nơi
đây bà được người Pháp và người thổ dân tôn kính vì ơn làm được những việc huyền
nhiệm và lòng tốt của bà. “Bông huệ của dân Mohawk” là quan thầy của những người
thổ dân Mỹ, người tỵ nạn và người tàn phế.
THÁNH ANNA FRANCESCA BOSCARDIN
Cô thôn nữ trở thành y tá
dũng cảm được nhiều người yêu mến
1888 – 1922
Lễ kính: 20 tháng 10
Anna
Francesca Boscardin sinh tại Brendola, nước Ý trong một gia đình dân quê nghèo
khó, có người cha ghiền rượu và hung bạo trong nhà. Cô được học ít và phải làm đầy
tớ kiếm sống. Gia đình đặt cho cô cái tên
diễu cợt là “con ngỗng” vì vẻ bề ngoài có vẻ kém thông minh. Cô vào dòng Thánh
Dorothy, Các Ái Nữ của Thánh Tâm năm 1904, lấy tên dòng là Bertilla. Sau khi làm
việc trong nhà bếp và phòng giặt được ba năm, cô học làm y tá. Chẳng bao lâu cô
trở thành người được mộ mến trong khu bệnh nhi đồng vì kiểu cách đơn sơ và dịu
dàng của cô. Cô chăm sóc thương binh Ý trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất,
ở lại với các bệnh nhân trong khi khu vực đó bị đánh bom. Cô được Đức Giáo Hoàng
Gioan XXIII phong thánh năm1961 trước một đám đông trong đó có nhiều bệnh nhân
cũ của cô. Người ta kể lại nhiều phép lạ xảy ra nơi mộ phần của cô.
THÁNH JOSEMARIA ESCRIVÁ DE BALAGUER
Vị sáng lập Tu Trào Opus
Dei nhấn mạnh ơn gọi nên thánh ở khắp mọi nơi
1902 – 1975
Lễ kính: 26 tháng 6
Cha
Josemaria sinh tại Barbastro, Tây Ban Nha, được thụ phong linh mục năm 1925. Năm
1928 ngài thành lập tu trào Opus Dei - từ Latinh này có nghĩa là “Công Việc của
Chúa”- thành một tông đồ đoàn trong những
hoàn cảnh của đời thường, nhất là trong công việc làm, chú trọng vào ơn gọi nên
thánh ở khắp nơi. Tu trào gồm có những thường dân, linh mục và các chủng sinh. Đức
Cha Escrivá chết năm 1975 tại Rome, nơi ngài đã sống để dẫn đầu tổ chức quốc tế
này kể từ 1946. Năm 1982 Opus Dei được nâng lên hàng giáo phận khoáng đại, tương
đương với một giáo phận không địa giới. Vị sáng lập được phong chân phước năm
1992 và phong thánh năm 2002.
Vũ Vượng
dịch